Chủ YếU >> UNG THƯ VÚ >> Nguy cơ BC ở phụ nữ chuyển giới khi điều trị bằng nội tiết tố

Nguy cơ BC ở phụ nữ chuyển giới khi điều trị bằng nội tiết tố

Các chất kích thích tố được sử dụng cho người chuyển giới để giảm bớt căng thẳng tâm lý, đồng thời gây ra và duy trì những thay đổi mong muốn về thể chất. Tuy nhiên, người ta biết rất ít về nguy cơ của những hormone này đối với sự phát triển của vú hoặc nguy cơ phát triển BC ở phụ nữ chuyển giới.

Mới đây ôn tập đã xem xét tác động của chế độ điều trị nội tiết tố đối với sự phát triển của vú, tác động của các loại thuốc này đối với mô vú và nguy cơ mắc bệnh BC đối với bệnh nhân chuyển giới từ nam sang nữ. Trọng tâm của bài báo là về sự phát triển ngực ở bệnh nhân chuyển giới và chuyển giới, để so sánh chúng về mặt ảnh hưởng nội tiết tố. và để tóm tắt các phác đồ nội tiết tố hiện đang được sử dụng trong quần thể này.

Tại Hoa Kỳ, phụ nữ chuyển giới (nghĩa là phụ nữ được điều trị bằng nội tiết và/hoặc trải qua phẫu thuật chuyển giới) chiếm khoảng 3,29 phụ nữ trên 10.000 người.

Đối với những phụ nữ chuyển giới đang sử dụng thuốc nội tiết tố, sự phát triển ngực chủ yếu xảy ra trong 6 tháng đầu tiên của liệu pháp hormone khẳng định giới tính (GAHT). Người ta biết rất ít về lịch sử tự nhiên và ảnh hưởng của các hormone liên giới tính khác nhau đối với sự phát triển ngực ở phụ nữ chuyển giới.

Liệu pháp estrogen tạo ra nhiều hiệu ứng, bao gồm thay đổi tâm trạng, giảm ham muốn tình dục và khả năng cương cứng, giảm nồng độ testosterone bên cạnh các tác động vật lý bên ngoài đối với các đặc điểm tình dục, bao gồm phát triển ngực, làm mềm da và phân phối lại mỡ ở hông. Nồng độ testosterone giảm từ phạm vi 200-300 ng/dL được tìm thấy ở cis-nam nhưng cao hơn mức tìm thấy ở cis-nữ, khoảng 75 ng/dL.

GAHT ở phụ nữ chuyển giới bao gồm thuốc hạ androgen, thuốc ức chế thụ thể androgen ngoại vi, chất tương tự hormone giải phóng gonadotropin (GnRH) và liệu pháp estrogen. Trong số các loại thuốc làm giảm nội tiết tố nam được sử dụng là cyproterone axetat với liều lượng từ 50 mg đến 100 mg/ngày hoặc spironolactone với liều lượng từ 100 mg đến 200 mg/ngày (tối đa là 400 mg/ngày). Spironolactone được ưa chuộng hơn cyproterone axetat, loại thuốc này đã không còn được ưa chuộng do tăng nguy cơ phát triển u màng não, tăng nguy cơ trầm cảm nặng và tổn thương gan.

Flutamide cũng có thể được dùng với liều lượng từ 50 mg đến 75 mg/ngày dưới dạng thuốc kháng androgen. Thuốc chẹn thụ thể androgen ngoại biên, finasteride, được dùng với liều 1,5 mg uống mỗi ngày. Trong khi estrogen liên hợp đường uống liều cao (2,5 mg-7,5 mg đường uống hàng ngày) đã được sử dụng trước đây, do tăng nguy cơ thuyên tắc huyết khối, các khuyến cáo hiện tại là sử dụng estradiol val Cả, được dùng đường uống, tiêm bắp 2 tuần một lần. , một miếng dán xuyên da cứ sau 3 ngày hoặc gel xịt với liều 0,8 mg đến 3 mg mỗi ngày chia làm hai lần. Liều lượng estrogen cao hơn được sử dụng ở phụ nữ chuyển giới so với liều dùng ở phụ nữ chuyển giới trong liệu pháp thay thế hormone. Thuốc chủ vận GnRH được sử dụng ở những bệnh nhân trẻ tuổi để ngăn chặn sự phát triển của tuổi dậy thì.

Dữ liệu về tác dụng của estrogen ở nam giới chuyển giới còn hạn chế. Điều này đã dẫn đến khó thiết lập các yếu tố rủi ro và khung thời gian cho các sự kiện bất lợi. Tuy nhiên, các loại tổn thương vú lành tính khác nhau, bao gồm xơ nang, ống nang và ống tăng sản, đã được quan sát thấy sau khi điều trị bằng estrogen và kháng androgen trong ít nhất 2 năm.

Không có nghiên cứu ngẫu nhiên nào kiểm tra tác động của GAHT đối với sự phát triển BC ở phụ nữ chuyển giới. Dữ liệu về tỷ lệ mới mắc được chuẩn hóa từ một nghiên cứu đoàn hệ từ Hà Lan cho thấy nguy cơ mắc bệnh BC ở phụ nữ chuyển giới tăng gấp 46 lần so với nam giới chuyển giới, nhưng nguy cơ mắc bệnh thấp hơn so với nguy cơ mắc bệnh ở phụ nữ chuyển giới sau thời gian điều trị bằng hormone trung bình là 18 năm. Dữ liệu cũng chỉ ra rằng BC phát triển ở độ tuổi trẻ hơn ở phụ nữ chuyển giới so với phụ nữ chuyển giới (tương ứng là 50 tuổi so với 61 tuổi).

Không có hướng dẫn kiểm tra sức khỏe được quốc tế khuyến nghị cho bệnh nhân chuyển giới. Vẫn chưa rõ nên bắt đầu sàng lọc BC ở độ tuổi nào. Một số thậm chí còn ủng hộ việc không sàng lọc BC cho phụ nữ chuyển giới. Những người khác cho rằng chụp nhũ ảnh nên được thực hiện 2 năm một lần trong độ tuổi từ 50 đến 69 tuổi. Tuy nhiên, các tác giả khác đã đề nghị bắt đầu sàng lọc BC sau 5 năm điều trị nội tiết tố. Sự thiếu đồng thuận này không chỉ làm tăng thêm sự nhầm lẫn trong việc quản lý bệnh nhân chuyển giới mà còn có thể ảnh hưởng xấu đến bảo hiểm.

Khi các nỗ lực của xã hội nhằm nâng cao tính đa dạng, công bằng và hòa nhập ngày càng tăng, bài báo này cung cấp cho dược sĩ đánh giá kịp thời về thông tin hạn chế có sẵn mà họ có thể sử dụng để giúp phụ nữ chuyển giới điều hướng lĩnh vực phức tạp của GAHT và các rủi ro cố hữu của nó.

Nội dung trong bài viết này chỉ dành cho mục đích thông tin. Nội dung không nhằm mục đích thay thế cho lời khuyên chuyên nghiệp. Bạn hoàn toàn chịu rủi ro khi tin cậy vào bất kỳ thông tin nào được cung cấp trong bài viết này.

« Nhấp vào đây để trở lại Cập nhật Ung thư Vú.