Chủ YếU >> UNG THƯ VÚ >> Nghiên cứu đa trung tâm về các chất ức chế CDK4/6 ở Nam BC

Nghiên cứu đa trung tâm về các chất ức chế CDK4/6 ở Nam BC

Ung thư vú nam (BC) chiếm ít hơn 1% trong tất cả các trường hợp chẩn đoán BC, với 80% trường hợp dương tính với thụ thể nội tiết tố (HR+) và âm tính với thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì 2 ở người (HER2-). Do bệnh hiếm gặp nên rất khó tiến hành các thử nghiệm lâm sàng giai đoạn III để đánh giá phác đồ điều trị. Các chất ức chế CDK4/6 (tức là palbociclib, abemaciclib và ribociclib) đã được chứng minh là cải thiện khả năng sống sót không bệnh tiến triển (PFS) ở phụ nữ có HR+ HER2- BC di căn.

Một nghiên cứu hồi cứu đã được tiến hành để giúp đánh giá vai trò của chất ức chế CDK4/6 ở bệnh nhân nam BC. Một nghiên cứu đa trung tâm liên quan đến 14 trung tâm chăm sóc cấp ba đã được tiến hành ở Thổ Nhĩ Kỳ từ năm 2019 đến năm 2022. Tổng cộng, 25 bệnh nhân nam mắc HR+ và HER2-BC đã được nghiên cứu.

Điểm cuối chính của nghiên cứu này là PFS, được định nghĩa là thời gian từ khi bắt đầu dùng thuốc ức chế CDK 4-6 và ngày tiến triển hoặc tử vong. Điểm cuối phụ là tỷ lệ đáp ứng và an toàn.

Tuổi trung bình của bệnh nhân nam BC bắt đầu dùng thuốc ức chế CDK4/6 là 57,25 tuổi và tất cả đều có tình trạng hoạt động bình thường đến tốt (0-1) của Nhóm Hợp tác Ung thư Đông phương (ECOG). Phần lớn bệnh nhân (64%) đang dùng thuốc ức chế aromatase và hơn một phần ba (36%) đang dùng hormone giải phóng gonadotropin và chất ưu việt. Không có bệnh nhân nào nhận abemaciclib, 64% nhận Palbociclib và 36% nhận ribociclib. Gần một nửa (48%) đã được sử dụng chất ức chế CDK4/6 như liệu pháp đầu tay. Tất cả các bệnh nhân đều mắc bệnh di căn (48%) hoặc bệnh tái phát (52%).

Trong khoảng thời gian theo dõi trung bình là 19,5 tháng, gần một phần tư (24%) bệnh nhân đã tử vong. PFS trung vị là 20,6 tháng cho cả nhóm. PFS là 20,6 tháng đối với palbociclib và 11,9 tháng đối với ribociclib, nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê ( P = .085). Đối với chín trong số 16 bệnh nhân được điều trị bằng palbociclib như liệu pháp đầu tay, PFS không đạt được tại thời điểm kiểm duyệt nhưng là 20,76 tháng đối với nhóm ribociclib; Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê ( P = .617). Bệnh nhân di căn gan có PFS ngắn nhất. Không có sự khác biệt về PFS dựa trên việc liệu bệnh có liên quan đến di căn mới hay bệnh tái phát hay bệnh nhân đang dùng thuốc ức chế aromatase hoặc chất ưu việt. Các yếu tố ảnh hưởng đến PFS bao gồm sự hiện diện của di căn gan và thứ tự điều trị.

Tỷ lệ sống sót trung bình chung không đạt được tại thời điểm kiểm duyệt, nhưng tỷ lệ sống sót là 68,8% khi thuốc ức chế CDK4/6 được sử dụng ngay từ đầu và 63,9% khi một trong những thuốc này được sử dụng sau đó trong quá trình điều trị.

Các tác dụng phụ tương tự như đã thấy ở nhóm nữ, trong đó phổ biến nhất là giảm bạch cầu trung tính (88%), mệt mỏi (40%), thiếu máu (28%), giảm tiểu cầu (20%), tăng alanine aminotransferase (12%), suy nhược (15 %), và tăng nồng độ creatinine huyết thanh (12%). Các tác dụng phụ nghiêm trọng từ độ 3 trở lên là giảm bạch cầu trung tính (28%), thiếu máu (4%) và tăng alanine aminotransferase (4%). Hơn một phần ba số bệnh nhân (36%) cần giảm liều, nhưng điều này không ảnh hưởng xấu đến sự sống còn. Không có tác dụng phụ nào liên quan đến thuốc được cho là góp phần gây tử vong.

Dược sĩ có thể sử dụng nghiên cứu này để giúp xác định vị trí điều trị của thuốc ức chế CDK4/6 ở bệnh nhân nam mắc BC vì chúng đã được chứng minh là có hiệu quả và độ an toàn tương tự như ở bệnh nhân nữ mắc BC.

Nội dung trong bài viết này chỉ dành cho mục đích thông tin. Nội dung không nhằm mục đích thay thế cho lời khuyên chuyên nghiệp. Việc phụ thuộc vào bất kỳ thông tin nào được cung cấp trong bài viết này là rủi ro của riêng bạn.

« Nhấp vào đây để trở lại Cập nhật Ung thư Vú.