Chủ YếU >> UNG THƯ VÚ >> Cập nhật ASCO Quản lý di căn não trong bệnh dương tính với HER2

Cập nhật ASCO Quản lý di căn não trong bệnh dương tính với HER2

Gần đây, ASCO đã cập nhật hướng dẫn về quản lý di căn não (BM) ở bệnh nhân ung thư vú (BC) tiến triển dương tính với HER2 (+). Bản cập nhật bao gồm các khuyến nghị dựa trên đánh giá hệ thống đối với liệu pháp toàn thân cũng như các khuyến nghị dựa trên sự đồng thuận đối với xạ trị và/hoặc phẫu thuật đối với HER2+ BC với BM.

Các hướng dẫn đặt ra để giải quyết ba câu hỏi:

• Phương pháp điều trị BM tại chỗ có khác nhau ở những bệnh nhân mắc HER2+ BC không?
• Liệu pháp toàn thân nên được quản lý như thế nào ở những bệnh nhân chỉ có HER2+ BM so với bệnh di căn lên não và những nơi khác?
• Bệnh nhân HER2+ BC có nên được kiểm tra sự phát triển của BM không?

Các khuyến nghị liên quan đến điều trị bằng thuốc toàn thân sẽ được thảo luận. Tuy nhiên, memantine được sử dụng với liệu pháp tại chỗ, bao gồm xạ trị toàn bộ não, để trì hoãn thời gian suy giảm nhận thức. Các hướng dẫn khuyến cáo rằng memantine được sử dụng khi xạ trị toàn bộ não được thực hiện (hoặc tối đa 6 tháng sau) và tránh xạ trị vùng hải mã (gọi là tránh hồi hải mã ) nếu không có di căn trong phạm vi 5 mm tính từ hồi hải mã. Tuy nhiên, không có thử nghiệm trực tiếp nào so sánh hiệu quả và độ an toàn của các liệu pháp điều trị tại chỗ đơn thuần so với xạ trị toàn bộ não cộng với memantine có hoặc không có phẫu thuật phóng xạ lập thể.

Về liệu pháp toàn thân, tucatinib kết hợp với capecitabine và trastuzumab có thể được cung cấp cho bệnh nhân mắc HER2+ BC có BM không có triệu chứng hiệu ứng khối lượng (nghĩa là không có bằng chứng mệt mỏi, buồn ngủ, buồn nôn và nôn, thay đổi tính cách hoặc hành vi, hoặc các vấn đề với thị lực) và bệnh của họ đã tiến triển trên ít nhất một phương thức điều trị theo hướng HER2 trước đó. Điều trị tại chỗ có thể bị trì hoãn cho đến khi tiến triển nội sọ xảy ra. Tuy nhiên, đây là một khuyến nghị yếu dựa trên bằng chứng chất lượng thấp.

Các hướng dẫn thảo luận về bằng chứng mới từ thử nghiệm HER2CLIMB, bao gồm phác đồ điều trị bằng tucatinib, trastuzumab và capecitabine ở những bệnh nhân có tiến triển bệnh khi điều trị bằng trastuzumab, pertuzumab và/hoặc trastuzumab emtansine. Thử nghiệm HER2CLIMB đã chứng minh sự gia tăng có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ sống sót không bệnh tiến triển tổng thể (tỷ số nguy cơ [HR] 0,48; KTC 95%, 0,34-0,69). Trong số những bệnh nhân mắc BM, khả năng sống sót không tiến triển của hệ thần kinh trung ương (CNS) (nghĩa là nguy cơ tiến triển nội sọ hoặc tử vong) được cải thiện đáng kể, cũng như tỷ lệ sống sót chung và kết quả tỷ lệ đáp ứng chung. Điều quan trọng cần lưu ý là khuyến nghị này chỉ giới hạn ở những bệnh nhân mắc BM không có triệu chứng chưa được điều trị tại chỗ. Bệnh nhân phải đáp ứng các tiêu chí đủ điều kiện cho sự thất bại của các dòng điều trị trước đó (ví dụ: trastuzumab và pertuzumab hoặc trastuzumab emtansine). Phác đồ HER2CLIMB cũng có thể được xem xét cho những bệnh nhân có di căn <3 đến 4 cm không có hiệu ứng khối có triệu chứng và có tiên lượng thuận lợi.

Những bệnh nhân được phẫu thuật và/hoặc xạ trị cho BM và có bệnh toàn thân đang tiến triển tại thời điểm chẩn đoán BM nên được điều trị bằng liệu pháp nhắm mục tiêu HER2 và liệu pháp trastuzumab deruxtecan bậc hai, sau đó là chế độ điều trị HER2CLIMB của tucatinib, capecitabine và trastuzumab nếu BM ổn định sau khi điều trị tại chỗ.

Bản cập nhật đánh giá tài liệu cho thấy rằng trong khi neratinib cộng với capecitabine so với lapatinib cộng với capecitabine ở những bệnh nhân đã điều trị bằng liệu pháp toàn thân bậc hai (hoặc cao hơn) và những người mắc BM không có triệu chứng không cho thấy sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ sống sót chung, thì có bằng chứng từ kết quả thứ phát neratinib đó có hoạt động thần kinh trung ương. Tuy nhiên, không có đủ bằng chứng để khuyến nghị dùng neratinib cộng với hóa trị liệu khi bệnh nhân đã được điều trị toàn thân bậc hai.

Mặc dù các hướng dẫn đề cập đến một sau đây phân tích thăm dò của một đoàn hệ từ thử nghiệm KAMILLA đã kiểm tra việc sử dụng trastuzumab emtansine ở những bệnh nhân đã được điều trị toàn thân bậc hai (hoặc cao hơn) đối với BC di căn HER2+ với BM lúc ban đầu và cho thấy tỷ lệ đáp ứng là 21,4%, hội đồng chuyên gia thấy không đủ bằng chứng để đưa ra khuyến nghị. Nghiên cứu chính của KAMILLA đã tập trung vào việc sử dụng trastuzumab emtansine ở những bệnh nhân được điều trị và hóa trị liệu nhắm mục tiêu HER2 trước đó mà không có triệu chứng hoặc đã được điều trị hoặc kiểm soát BM.

Cũng được thảo luận trong hướng dẫn là thử nghiệm NEfER-T, so sánh neratinib cộng với paclitaxel với trastuzumab cộng với paclitaxel và tìm thấy nguy cơ tương đối có ý nghĩa thống kê là 0,48 (KTC 95%, 0,29-0,79; P = 0,002) trong một phân nhóm bệnh nhân chưa được điều trị di căn hệ thần kinh trung ương có triệu chứng hoặc tiến triển trước đó. Một lần nữa, các hướng dẫn không tìm thấy đủ bằng chứng để khuyến nghị sử dụng neratinib cộng với paclitaxel.

Cuối cùng, trong khi các hướng dẫn khuyến nghị rằng các bác sĩ lâm sàng nên có ngưỡng kiểm tra MRI não thấp ở những bệnh nhân có bất kỳ triệu chứng thần kinh nào, chẳng hạn như đau đầu mới khởi phát, buồn nôn hoặc nôn không rõ nguyên nhân, hoặc thay đổi chức năng vận động hoặc cảm giác, họ khuyến nghị rằng ở những bệnh nhân không có tiền sử hoặc triệu chứng của BM đã biết, không có đủ bằng chứng để khuyến nghị hoặc chống lại việc thực hiện giám sát định kỳ bằng MRI não và điều này phải trải qua các quy trình ra quyết định chung.

Bản cập nhật hướng dẫn này đóng vai trò là công cụ để giáo dục dược sĩ về các lựa chọn điều trị bổ sung cho HER2+ BC tiên tiến với BM dựa trên thử nghiệm HER2CLIMB và cung cấp cơ sở lý luận cho việc sử dụng memantine trong nhóm đối tượng này.

Nội dung trong bài viết này chỉ dành cho mục đích thông tin. Nội dung không nhằm mục đích thay thế cho lời khuyên chuyên nghiệp. Việc phụ thuộc vào bất kỳ thông tin nào được cung cấp trong bài viết này là rủi ro của riêng bạn.

« Nhấp vào đây để trở lại Cập nhật Ung thư Vú.