Chủ YếU >> KHOA TIÊU HÓA >> Biến cố tim mạch, tỷ lệ tử vong giảm nhờ phẫu thuật giảm béo

Biến cố tim mạch, tỷ lệ tử vong giảm nhờ phẫu thuật giảm béo

Dựa theo phát hiện từ một nghiên cứu đoàn hệ được công bố trên tạp chí Tạp chí của Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ Mở mạng , phẫu thuật giảm béo (BS) có tương quan với nguy cơ mắc các biến cố tim mạch nghiêm trọng (MACE) và tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân ở bệnh nhân mắc bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu (NAFLD) và béo phì thấp hơn đáng kể.

Trong nghiên cứu thuần tập hồi cứu, dựa trên dân số lớn này, các nhà nghiên cứu đã tìm cách khám phá mối tương quan giữa BS với sự xuất hiện của MACE và tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân ở bệnh nhân NAFLD và béo phì (BMI ≥35). Các nhà nghiên cứu đã thu thập dữ liệu từ nền tảng TriNetX (Cambridge, Massachusetts), một mạng nghiên cứu sức khỏe đa tổ chức được liên kết cung cấp hồ sơ sức khỏe điện tử được xác định danh tính từ các tổ chức chăm sóc sức khỏe trong mạng.

Kết quả chính là đánh giá mức độ phổ biến hoặc khởi phát mới của MACE được phân loại là suy tim (HF), các biến cố tim mạch tổng hợp, các biến cố mạch máu não tổng hợp và các can thiệp động mạch vành tổng hợp.

Các mô hình mối nguy theo tỷ lệ Cox đã được sử dụng để ước tính tỷ lệ nguy hiểm (HRs). Các nhà nghiên cứu đã so sánh kết quả của 4.687 người trưởng thành (tuổi trung bình, 44,8 tuổi; 81,5% là phụ nữ) đã trải qua BS trong khoảng thời gian từ tháng 1 năm 2005 đến tháng 12 năm 2021 và 4.687 cá nhân phù hợp với xu hướng (tuổi trung bình, 44,7 tuổi; 82,8% là phụ nữ) không trải qua BS.

Kết quả chỉ ra rằng sau thời gian theo dõi trung bình là 5,1 năm (nhóm BS) và 4,3 năm (nhóm không BS), trong số những người thuộc nhóm BS, nguy cơ mắc HF mới khởi phát thấp hơn đáng kể (HR 0,60; 95% CI, 0,51-0,70), biến cố tim mạch (HR 0,53; 95% CI, 0,44-0,65), biến cố mạch máu não (HR 0,59; 95% CI, 0,51-0,69) và can thiệp động mạch vành (HR 0,47; 95% CI , 0,35-0,63) so với nhóm không BS. Tương tự như vậy, tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân thấp hơn đáng kể ở nhóm BS (HR 0,56; KTC 95%, 0,42-0,74). Các tác giả chỉ ra rằng trong thời gian theo dõi 1, 3, 5 và 7 năm, những kết quả này là nhất quán.

Một phân tích thứ cấp đã xác nhận mối tương quan của BS với việc giảm kết quả bệnh tim mạch, bao gồm nguy cơ mắc HF mới khởi phát (HR 0,4; KTC 95%, 0,37-0,45), các biến cố tim mạch tổng hợp (HR 0,52; KTC 95%, 0,46-0,6 ), biến cố mạch máu não tổng hợp (HR 0,54; KTC 95%, 0,49-0,6), can thiệp động mạch vành tổng hợp hoặc điều trị phẫu thuật (HR 0,44; KTC 95%, 0,36-0,53) và tử vong (HR 0,41; KTC 95%, 0,35- 0,47).

Các tác giả đã viết, “Những phát hiện của chúng tôi củng cố các mối liên hệ đã được báo cáo trước đây và bổ sung thêm dữ liệu mới vào tài liệu hiện tại. BS đã được báo cáo là có liên quan đến việc cải thiện nguy cơ kết quả bất lợi về tim mạch lâu dài ở bệnh nhân béo phì và tiểu đường trong các nghiên cứu quan sát phù hợp.”

Họ cũng nói thêm, “Phân tích của chúng tôi bổ sung dữ liệu mới liên quan đến mối liên hệ của phương thức trị liệu với kết quả NAFLD ngoài các điểm cuối thay thế của sự cải thiện hoặc hồi quy mô học. Theo hiểu biết của chúng tôi, sự cải thiện về tỷ lệ tử vong được quan sát thấy trong nhóm thuần tập BS trước đây không được báo cáo cho bất kỳ tập hợp con NAFLD nào và hỗ trợ việc sử dụng BS như một tác nhân trị liệu để cải thiện kết quả lâm sàng trong NAFLD.

Để kết luận, các tác giả chỉ ra rằng những phát hiện của họ ngụ ý rằng BS có liên quan đến tỷ lệ mắc MACE thấp hơn và tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân ở bệnh nhân mắc NAFLD và béo phì. Họ viết, “Mặc dù nghiên cứu của chúng tôi cung cấp thông tin mới, nhưng cần có các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên và nghiên cứu quan sát bổ sung để chứng thực những phát hiện của chúng tôi.”

Nội dung trong bài viết này chỉ dành cho mục đích thông tin. Nội dung không nhằm mục đích thay thế cho lời khuyên chuyên nghiệp. Bạn hoàn toàn chịu rủi ro khi tin cậy vào bất kỳ thông tin nào được cung cấp trong bài viết này.